Ngày 25/08/2025
Béo phì không chỉ đơn thuần ảnh hưởng thẩm mỹ mà đã trở thành bệnh mạn tính đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe, làm giảm chất lượng cuộc sống của con người. Điều này không hề phóng đại, cần có sự quan tâm của toàn xã hội.
Nguy hại của béo phì
Tác hại của béo phì đối với con người không chỉ về hình thể, mà quan trọng hơn là sinh lý và tâm lý. Theo thống kê tỷ lệ mắc một số bệnh chuyển hóa không lây nhiễm (như tăng mỡ máu, đái tháo đường tuýp 2, gút…), bệnh tim mạch, bệnh mạch máu não (như tăng huyết áp, bệnh mạch vành, xơ cứng động mạch, đột quỵ…), bệnh phụ khoa (hội chứng buồng trứng đa nang, vô sinh...), và các bệnh túi mật, ung thư, bệnh xương khớp... có tỷ lệ thuận với tỷ lệ mắc bệnh béo phì.
Nhiều người bắt đầu yêu thích và sử dụng các phương pháp điều trị y học cổ truyền trong việc chữa bệnh, đặc biệt các bệnh về giảm béo hay xương khớp
Đồng thời béo phì cũng là yếu tố quan trọng dẫn đến rối loạn tâm lý, tử vong sớm, khuyết tật. Những yếu tố bất lợi này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người béo phì, đồng thời cũng làm tăng gánh nặng xã hội lên rất nhiều. Vì vậy, béo phì đã trở thành vấn đề y tế và xã hội mang tính toàn cầu.
Trong bối cảnh như vậy, giảm cân không chỉ là một phương pháp quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện sức khỏe mà còn là một khâu, một con đường quan trọng để dưỡng sinh phòng bệnh, kéo dài tuổi thọ.
Khái niệm dưỡng sinh phòng bệnh
Nhiều người có lẽ càng quan tâm đến làm thế nào để dưỡng sinh thông qua giảm cân. Để trả lời câu hỏi này, đầu tiên chúng ta phải hiểu được ý nghĩa, tác dụng và địa vị của dưỡng sinh, đồng thời hiều được những hiểu lầm và điểm mù đang tồn tại trong dưỡng sinh trong xã hội hiện nay. Có nhiều định nghĩa khác nhau về dưỡng sinh bảo kiện. Theo nghĩa đen, dưỡng là bảo dưỡng, điều dưỡng, có thể hiểu là trong hoạt động sống đảm bảo được sức khỏe thông qua lối sống đúng đắn. Vì vậy, mục đích cốt lõi của dưỡng sinh là khỏe mạnh và trường thọ.
Từ thời cổ đại, địa vị của dưỡng sinh đã được coi trọng trong y học cổ truyền. Bốn thiên đầu tiên trong Nội kinh – Tố vấn đã thảo luận về khái niệm, nguyên tắc và tầm quan trọng của dưỡng sinh (cách nói trong YHCT là trị vị bệnh – trị khi chưa có bệnh). Chúng ta đều biết Biển Thước có một địa vị vô cùng cao trong lịch sử YHCT, vậy mà bản thân Biển Thước cho rằng y thuật của ông còn kém xa hai người anh trai: anh cả thường dùng các biện pháp phòng bệnh trước khi bệnh phát sinh, anh hai thì chữa bệnh ngay khi bệnh mới khởi phát để ngăn chặn sự phát triển của bệnh, còn Biển Thước thường can thiệp và điều trị khi bệnh đã trở nên nghiêm trọng.
Từ đây có thể thấy, cổ nhân từ lâu đã nhận thức được tầm quan trọng của trị vị bệnh, thông qua lối sống đúng đắn, trong sinh hoạt hàng ngày chú trọng dưỡng sinh mới có thể đạt đến “thiên niên”, sống lâu trăm tuổi. Trong dòng chảy lịch sử lâu đời hàng nghìn năm, tổ tiên chúng ta đã tích lũy được những kiến thức và kinh nghiệm vô cùng phong phú trong phương diện dưỡng sinh. Mấy chục năm gần đây, điều kiện sống được cải thiện, mức sống nâng cao, ý thức về sức khỏe của người dân cũng ngày một tăng cao, điều này đã hình thành một cơn sốt dưỡng sinh lâu dài mà ko suy thoái. Tuy nhiên người dân còn một số hiểu lầm và điểm mù trong cách dưỡng sinh đúng cách, trong đó biểu hiện nổi bật có: chỉ dưỡng sinh qua bồi bổ, cho rằng chỉ có dùng đồ bổ mới có thể dưỡng sinh; không phân biệt cá nhân mà ứng dụng tuỳ tiện; không để tâm thời gian, sử dụng kéo dài; ỷ lại về tâm lý, tính toán thiệt hơn... Tất cả những biểu hiện này không những không thể dưỡng sinh mà còn phản tác dụng.
Dưỡng sinh đúng đắn phải tuân theo nguyên tắc “thông bổ kết hợp, dĩ bình vi kỳ”, nhấn mạnh “cá thể hoá, theo mùa, lâu dài, đa dạng, thiết thực”, bao gồm nhiều phương diện như bảo dưỡng sinh hoạt (chế độ ăn uống, ngủ nghỉ, vận động), bảo dưỡng tinh thần, bảo dưỡng bằng thuốc....
Điểm chính và phương pháp giảm cân
Béo phì ngày càng nghiêm trọng đã trở thành vấn đề quan tâm chung của toàn xã hội, vì vậy việc khôi phục và duy trì cân nặng bình thường để đảm bảo sức khỏe thông qua các phương pháp giảm cân cũng là chủ đề ngày càng được chúng ta quan tâm. Nhưng hiện nay, mọi người vẫn có những hiểu lầm về việc giảm cân, hơn nữa xuất hiện một số hiện tượng xấu như “người cần giảm cân thì không giảm được, người không cần giảm cân thì giảm cân bừa bãi”, “muốn giảm cân thành công nhanh chóng mà thậm chí áp dụng các biện pháp quá đà gây tổn hại đến sức khỏe” ...
Ví dụ: Tự ý sử dụng các sản phẩm giảm cân, ăn kiêng quá độ, tập luyện quá độ, dùng thuốc thông tiện để giảm cân một cách mù quáng. Cuối cùng hoặc khiến cho việc giảm cân không đạt được kết quả, hoặc do giảm cân không đúng cách mà gây ra chán ăn, rối loạn nhịp tim, rối loạn tâm lý, rối loạn dinh dưỡng, rối loạn chuyển hóa…. Mất nhiều hơn được. Vì vậy, chúng ta cần phải hiểu rõ các phương pháp giảm cân khoa học:
1. Đối với những người thừa cân và béo phì, giảm cân hợp lý là điều cần thiết;
2. Giảm cân ở một mức độ nào đó được coi là một hành vi y tế, phải được thực hiện dưới sự hướng dẫn của bác sĩ và người có chuyên môn liên quan;
3. Giảm cân lành mạnh phải an toàn, hiệu quả, bền vững;
4. Phương án giảm cân phải vừa chú trọng tính toàn diện, vừa nhấn mạnh tính cá nhân hóa.
Dựa trên các quan điểm trên, chúng tôi đề xướng giảm cân đúng cách cần phải nỗ lực làm được “2 không 2 ít” - không tiêu chảy, không mệt mỏi, ít ăn kiêng, ít tăng cân trở lại, như vậy mới có thể thực sự đạt được mục đích giảm cân dưỡng sinh.
Nguyên nhân căn bản của béo phì, đặc biệt là béo phì đơn thuần, là năng lượng nạp vào cơ thể quá nhiều vượt quá tiêu hao, dẫn đến tích tụ mỡ trong cơ thể. Vì vậy, cốt lõi của việc giảm cân là ức chế thu nạp và tiêu hóa hấp thu, thúc đẩy tiêu hao và bài tiết. Các cách giảm cân bao gồm giảm cân qua chế độ ăn, giảm cân qua tập luyện và giảm cân y tế.
1.1 Giảm cân qua chế độ ăn: Một trong những nguyên nhân gây béo phì đơn thuần nằm ở thói quen ăn uống không lành mạnh, bao gồm ăn quá no, ăn quá nhiều, chỉ ăn thức ăn yêu thích. Do đó, bằng cách kiểm soát lượng thức ăn một cách hợp lý, đặc biệt là cố gắng ít ăn thức ăn giàu chất béo, giàu protein và kiểm soát việc ăn đồ ngọt, bia rượu..., cân nặng có thể được kiểm soát và giảm cân một cách hiệu quả, đặc biệt đối với những người thừa cân và béo phì mức độ nhẹ. Chỉ cần kiểm soát chế độ ăn uống hợp lý thì sẽ phát huy hiệu quả.
Cần chỉ ra rằng: việc kiểm soát ăn uống, chế độ ăn hợp lý cần phù hợp với bất kỳ người thừa cân, béo phì nào; giảm cân qua chế độ ăn phải là một hành vi lâu dài chứ không thể ngắn hạn; giảm cân bằng cách điều chỉnh cấu trúc chế độ ăn, kiểm soát lượng thức ăn không phải là chế độ ăn kiêng hoặc không ăn những thực phẩm giàu chất béo, giàu protein và đồ ngọt, mà là cần kiểm soát về lượng ăn vào. Hãy nhớ đạo lý “tất cả các loại thực phẩm đều phải ăn một ít để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể, bất kỳ loại thực phẩm nào cũng không nên ăn nhiều để đảm bảo chế độ ăn uống an toàn”.
1.2 giảm cân qua tập luyện: Thúc đẩy quá trình tiêu hao năng lượng trong cơ thể thông qua tập luyện phù hợp từ đó đạt được mục tiêu giảm cân ở một mức độ nhất định, phù hợp với bất kỳ người thừa cân và béo phì nào, nhưng việc lựa chọn loại hình tập luyện, lượng vận động và phương thức tập luyện thì mỗi người sẽ khác nhau. Tuân thủ nguyên tắc gia tăng dần dần, kiên trì lâu dài, tránh tập luyện các vân động kịch liệt ngắn hạn như đi bộ quá sức, chạy trong thời gian dài... Đặc biệt cần chú ý tránh phát sinh hiện tượng chấn thương khi tập luyện, vận động quá độ....
1.3 Giảm cân bằng thuốc: Đối với một số bệnh nhân mức độ nặng và hy vọng giảm cân trong thời gian ngắn, việc áp dụng thuốc có chọn lọc là cần thiết. Thực tế, trên thị trường dường như có rất nhiều sản phẩm giảm cân, nhưng không có nhiều loại thuốc thực sự có tác dụng giảm cân, nguyên tắc tác dụng của chúng chủ yếu tập trung vào 2 phương diện là ức chế cảm giác thèm ăn, tiêu hóa hấp thu và thúc đẩy bài tiết, chẳng hạn như sibutramine, orlistat... Những loại thuốc này có tác dụng giảm cân rõ ràng, nhưng do các tác dụng phụ như bệnh tim mạch nghiêm trọng, đại tiện phân mỡ, tổn thương gan... mà bị hủy bỏ hoặc hạn chế việc sử dụng.
Hiểu biết về béo phì trong Y học cổ truyền
Từ lâu trong Tố vấn – Thông bình hư thực luận đã có “phì quý nhân, tắc cao lương chi tật dã”, có những mô tả về thể hình như phì nhân, cao nhân, nhục nhân, chi nhân... Lý Đông Hằng, Chu Đan Khê – Kim Nguyên tứ đại gia quy kết sự phát sinh của béo phì là “phì báng nhân đa thấp, phì báng nhân đa đờm ẩm”, rõ ràng đưa ra quan điểm rằng người béo phì thì đa đờm thấp. Trương Cảnh Nhạc thì đề xuất rằng yếu tố tư chất bẩm sinh và yếu tố ăn uống về sau là nguyên nhân căn bản của bệnh béo phì, trong khi đó Trần Vô Đạc thời Thanh đưa ra quan điểm khí hư đa đờm gây béo phì, “phì nhân đa đờm, nãi khí hư dã”. Tổng hợp lời của các y gia trên, có thể quy nạp nhận thức về bệnh béo phì trong y học cổ truyền như sau:
Nguyên nhân gây bệnh: Bao gồm yếu tố ảnh hưởng và yếu tố gây bệnh. Yếu tố ảnh hưởng bao gồm di truyền bẩm sinh, cấu trúc và thói quen ăn uống không hợp lý, yếu tố thần kinh, yếu tố bệnh tật, yếu tố thuốc..., yếu tố gây bệnh chủ yếu là đàm ứ thuỷ thấp.
Tính chất bệnh: Béo phì là 1 bệnh chứng bản hư tiêu thực, hư thực kiêm tạp, “thực” chủ yếu là thuỷ thấp nội đình, đàm ứ hỗ kết, “hư” chủ yếu là khí hư dương khuy. Bất luận là thuỷ thấp hay đàm ứ, đều có tính âm hàn, cần sự ôn hoá của dương, sự thúc đẩy của khí mới có thể thanh trừ ra khỏi cơ thể. Khí hư thì thúc đẩy thiếu lực, dương khuy thì không thể ôn hoá, gây ra thấp đàm ứ trệ tích tụ trong cơ thể mà sinh ra béo phì.
Bản chất của béo phì: thực chất của mỡ thừa (cao chi) đó là 1 hình thức biểu hiện của sự tích tụ đàm ứ thuỷ thấp trong cơ thể, có thể quy vào phạm trù tích tụ trong trung y, tức cốt lõi của béo phì là “bạng nhân đa đàm thấp”.
Ngoài ra, chúng tôi cho rằng cần đặc biệt chú ý đến tác dụng của đởm đối với việc phát bệnh béo phì. Tác dụng và địa vị của đởm trong trung y rất đặc biệt, đởm vừa là 1 trong lục phủ, có đặc tính “tả nhi bất tàng”, lại là một trong những kỳ hằng chi phủ, có đặc tính “tàng nhi bất tả”, được gọi là “trung chính chi quan”. “Trung chính chi quan”là gì? Trung chính có nghĩa là bất thiên bất ỷ. Trung chính của đởm chủ yếu thể hiện ở khả năng điều hòa tàng tả mãn thực của lục phủ ngũ tạng, từ đó duy trì sự cân bằng phối hợp chức năng giữa tạng phủ. Vì vậy, Nội kinh đã nêu rõ luận điểm “phàm thập nhất tạng thủ quyết vu đởm”.
Việc thực hiện chức năng này chủ yếu liên quan đến việc điều hòa tiêu hóa, hấp thụ, bài tiết thức ăn, vì dịch mật trong túi mật có chứa các thành phần thúc đẩy tiêu hóa, hấp thụ và bài tiết: vừa có thể giúp tỳ vị tiêu hóa vận chuyển thức ăn, lại giúp tiểu trường “thụ thịnh chi quan” có thể hấp thụ các vi chất trong thức ăn, đồng thời còn giúp đại trường “truyền đảo chi quan” bài tiết các chất cặn bã của thức ăn, từ đó đảm bảo quá trình tiêu hóa, hấp thu và bài tiết thức ăn thức uống diễn ra bình thường, đảm bảo tạng phủ được tàng tả mãn thực.
Nếu ăn quá no, ăn theo sở thích, ăn thức ăn giàu chất béo, giàu protein, làm nặng thêm và vượt quá khả năng và chức năng của đởm, dẫn đến đường mật bất lợi, dịch mật không thông, gây ra rối loạn tiêu hóa, hấp thu và bài tiết thức ăn, dẫn đến tích tụ đàm ứ thuỷ thấp trong cơ thể mà hình thành chứng béo phì. Theo đây, cốt lõi của phát sinh bệnh béo phì là đường mật bất lợi, dẫn đến chuyển hóa bất thường, gây ra tình trạng chất cần bài tiết không được bài tiết, chất không nên hấp thu lại được hấp thu.
Tóm lại nguyên nhân chính của béo phì là cấu trúc và thói quen ăn uống không hợp lý, dẫn đến đường mật bất lợi, tỳ hư thất vận, làm cho chức năng chuyển hóa thức ăn của cơ thể bị rối loạn, sinh ra đàm ứ thuỷ thấp, thông qua kinh lạc mạch máu mà tích tụ trong cơ biểu, nội tạng và khắp cơ thể, thậm chí là rối loạn chức năng các tạng phủ khác như vị trường, tâm, can, thận..., hình thành nên hội chứng với các triệu chứng liên quan như béo hơn bình thường hoặc thở nhanh mệt mỏi, tức ngực hồi hộp...
Điều trị béo phì bằng đông dược
Ứng dụng đông dược để điều trị béo phì phải tuân theo lý luận đông y. Dựa theo béo phì thuộc phạm trù “tích tụ” loại đặc biệt và quan điểm cốt lõi của phát sinh bệnh béo phì là đường mật bất lợi, dịch mật không thông, việc điều trị bệnh béo phì dưới tiền đề thay đổi cấu trúc và thói quen ăn uống, tập luyện hợp lý, việc sử dụng trung dược cần kiên trì áp dụng 2 nguyên tắc sau:
1. Nhắm vào nguyên nhân béo phì thuộc phạm trù “tích tụ”, áp dụng phương pháp nhuyễn kiên tán kết để làm mềm hoá vùng mỡ thừa tích tụ quá nhiều. Bao gồm hoạt huyết hoá ứ, hoá đàm trừ thấp, tiêu thực thông tiện…, để thúc đẩy sự chuyển vận và tiêu hao mỡ thừa.
2. Nhắm vào khâu cốt lõi trong việc hình thành béo phì - đường mật bất lợi, dùng phương pháp thông lợi đường mật, điều chỉnh lưu lượng dịch mật và tỷ lệ các thành phần của dịch mật, để điều chỉnh quá trình tiêu hóa, hấp thu và bài tiết đồ ăn thức uống, ngăn ngừa sự hình thành thêm của đàm ứ thuỷ thấp, vừa có thể kiểm soát và giảm cân lại có thể ngăn chặn tăng cân trở lại.
Hiện nay đã có các nghiên cứu lâm sàng và thực nghiệm cho thấy có rất nhiều vị thuốc đông y có tác dụng giảm cân nhất định, như đại hoàng, sơn tra, quyết minh tử, thủ ô, thương truật, phục linh, ý dĩ nhân, trạch tả, hà diệp...
Kết hợp các kết quả nghiên cứu, dưới đây giới thiệu tác dụng giảm cân của một số vị thuốc đông dược:
1. Nhân sâm: Hầu hết mọi người đều cảm thấy phân vân thậm chí nghi ngờ về công dụng của nhân sâm trong việc giảm cân, cho rằng nhân sâm có thể kiện tỳ khai vị, gia tăng cảm giác thèm ăn, từ đó khiến người bệnh ăn nhiều hơn, hấp thu nhiều hơn và càng nặng cân hơn.
Thực tế, đây là một quan không đúng. Như đã đề cập ở trước: “bạng nhân đa đàm thấp”, mà mấu chốt của việc sinh ra đàm thấp nằm ở tỳ khí bất túc, rối loạn chức năng vận hoá thuỷ thấp, giống như cách nói “Tỳ vi sinh đàm chi nguyên”. Vì vậy, loại bỏ đam thấp có bản chất là thông qua kiện tỳ bổ khí. Ứng dụng của nhân sâm trong việc giảm cân có liên quan đến tác dụng bổ ích tỳ khí của nó: nó tăng cường chức năng vận hoá thuỷ thấp của tỳ bằng cách kiện tỳ bổ khí, do đó vừa có thể thúc đẩy loại bỏ đàm thấp đã hình thành, vừa có thể ngăn ngừa sự hình thành đàm thấp mới, đồng thời có thể đẩy nhanh sự chuyển vận của thức ăn, tương tự như khái niệm “đốt cháy lipid” trong YHHĐ. Đồng thời, nhân sâm còn có tác dụng bổ tâm khí rất tốt, thông qua tăng cường tâm khí để điều hòa mạch máu, gia tăng tốc độ lưu thông máu, bài trừ ứ huyết và ngăn ngừa huyết mới sinh ra. Vì vậy, nhân sâm khi được dùng chung với các vị thuốc tiêu thực hoá tích, khứ thấp hoá đàm, hoạt huyết hoá ứ, lợi đởm nhuyễn kiên... cho hiệu quả giảm cân rất tốt.
2. Bạch truật: có tác dụng kiên tỳ bổ khí, táo thấp lợi thuỷ. Vai trò của nó trong việc giảm cân có thể nói là tiêu bản kiêm trị: có thể phục hồi và tăng cường chức năng vận hóa của tỳ thông qua kiện tỳ bổ khí, vừa có thể điều hòa quá trình tiêu hóa, hấp thu và bài tiết thức ăn, lại có thể chuyển vận thức ăn dư thừa để ngăn ngừa sự sản sinh của đàm thấp; thông qua táo thấp lợi thuỷ để loại bỏ đàm thấp, ngăn ngừa đàm thấp sản sinh, đồn thời có thể bài trọc tiêu chi trực tiếp mà giảm cân. Tác dụng giảm cân của bạch truật cũng có liên quan đến tác dụng nhuận tràng thông tiện nhất định của nó, nhưng liều dùng phải lớn, thường là 15-30 g.
3. Sơn tra: Vai trò của sơn tra trong việc giảm cân liên quan đến chức năng tiêu thực hoá tích, hoạt huyết hoá ứ. Nó có thể tiêu thực hoá tích, tức tiêu hóa thức ăn, thúc đẩy tiêu hoá, loại trừ tích thực; cũng có thể thúc đẩy vận hành máu, bài trừ ứ huyết tích trệ thông qua hoạt huyết hoá ứ. Đồng thời sơn tra còn có thể bảo vệ tỳ vị, ngăn ngừa các thuốc và chất khác gây hại cho tỳ vị.
4. Hà diệp, hà ngạnh: Là thực vật sống dưới nước, hà diệp, hà ngạnh có tác dụng khứ thấp tiết trọc, có thể loại bỏ các rác thải trong cơ thể như thấp trọc, cũng có thể ngăn ngừa việc sản sinh ra đàm thấp mới, từ đó đạt được mục tiêu giảm cân.
5. Ý dĩ nhân: Tác dụng giảm cân của ý dĩ nhân đã được xác nhận trên lâm sàng và thực nghiệm, chủ yếu thông qua 2 cách sau phát huy tác dụng: 1 là kiện tỳ ích khí để phục hồi và tăng cường chức năng vận hoá của tỳ, 2 là có thể lợi thuỷ thẩm thấp để bài trừ đàm thấp, hơn nữa ngăn ngừa đàm thấp mới sản sinh.
6. Tam lăng, nga truật: là thuốc hành khí hoạt huyết, vai trò của tam lăng và nga truật trong việc giảm cân chủ yếu tập trung ở 3 phương diện: hoạt huyết hoá ứ để thúc đẩy vận hành máu, thanh trừ ứ huyết tích tụ, điều hoà độ đàn hồi mạch máu; thông lợi đường mật để thúc đẩy tiết ra và bài tiết dịch mật, điều tiết tiêu hoá hấp thu bài tiết thức ăn; tiêu thực hoá tích để thúc đẩy tiêu hoá thức ăn, bài trừ đồ ăn thức uống bị tích trệ.
7. Hổ trượng: Hổ trượng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giảm cân, nó có thể phát huy tác dụng theo nhiều cách: 1 là nó có tác dụng lợi đởm rõ ràng, chống lại cốt lõi của hình thành bệnh béo phì - đường mật bất lợi, phát huy thông lợi đường mật, điều tiết dịch mật; 2 là tác dụng lợi thấp tốt của nó có thể loại bỏ nguyên nhân trực tiếp gây béo phì – thuỷ thấp, làm tuyệt sinh căn nguyên của đờm; 3 là chức năng hoạt huyết rõ ràng của nó có thể khứ ứ thông mạch, điều tiết độ đàn hồi mạch máu, thanh trừ ứ huyết tích tụ; 4 là nó còn có tác dụng thông tiện nhất định, có thể loại bỏ đàm ứ thuỷ thấp ra ngoài.
Trên lâm sàng còn có rất nhiều vị thuốc khác có thể dùng để giảm cân, tuy nhiên cần lấy lợi đởm nhuyễn kiên, ích khí hoá ứ, thanh trừ đàm thấp làm nguyên tắc hướng dẫn trong dùng thuốc.
Tóm lại, thông qua giảm cân, vừa có thể điều trị bệnh béo phì để phục hồi và duy trì cân nặng khoẻ mạnh, lại có thể ngăn ngừa hoặc điều trị một số bệnh thứ phát có liên quan khác, đồng thời còn có thể cải thiện trạng thái tâm lý và tinh thần của bệnh nhân, từ đó cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống, làm tăng khả năng khoẻ mạnh trường thọ. Vì vậy, việc giảm cân không chỉ là có thể thực hiện được mà còn là tất yếu, triển vọng ứng dụng của đông dược trong việc giảm cân dưỡng sinh là rất rộng rãi.
TSBS. Hoàng Văn Hiếu - Khoa Châm cứu Dưỡng sinh viện YHCT Quân đội