0936 678 231 - 0932 585 431

Dân tộc Ba-Na

Ngày 16/08/2021

Tên gọi khác Tơ Lô, Giơ Lâng, (Y Lăng), Rơ Ngao, (Krem), Roh, Con Kde, A La Công, Kpăng Công, Bơ Môn

Nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer

Cư trú

Cư trú chủ yếu ở Kon Tum và miền Tây Bình Ðịnh và Phú Yên

Ðặc điểm kinh tế: Người Ba Na sống chủ yếu nhờ trồng rẫy. Rẫy cung cấp không chỉ lúa gạo, mà cả các loại lương thực khác, cũng như hoa màu, rau xanh, gia vị, mía, nhiều thứ quả cây và cả bông lấy sợi dệt vải. Cùng với trồng trọt từng gia đình thường có nuôi trâu, bò, dê, lợn, gà. Chó là con vật được yêu quý và không bị giết thịt. Hầu như mỗi làng đều có lò rèn. Một số nơi biết làm đồ gốm đơn sơ, phụ nữ dệt vải tự túc đồ mặc trong gia đình. Ðàn ông đan chiếu, lưới, các loại gùi, giỏ, mủng... Việc mua bán thường dùng vật đổi vật, xác định giá trị bằng con gà, lưỡi rìu, gùi thóc, con lợn, hay nồi đồng, ché, chiêng, cồng, trâu v.v..

 

Hôn nhân gia đình Tục hôn nhân người Ba Na cho phép tự do tìm hiểu và lựa chọn bạn đời, việc cưới xin đều theo nếp cổ truyền. Vợ chồng trẻ ở luân phiên mỗi bên một thời gian theo thỏa thuận giữa hai gia đình đôi bên, sau khi sinh con đầu lòng mới dựng nhà riêng. Trẻ em luôn được yêu chiều. Dân làng không đặt trùng tên nhau. Trong trường hợp những người trùng tên gặp nhau, họ làm lễ kết nghĩa, tùy tuổi tác mà xác lập quan hệ anh-em, cha-con, mẹ-con. 
ở người Ba Na, các con được thừa kế gia tài ngang nhau. Trong gia đình mọi người sống hòa thuận bình đẳng.

Tục lệ ma chay Người Ba Na quan niệm con người chết đi hoá thành ma, ban đầu ở bãi mộ của làng, sau lễ bỏ mả mới về hẳn thế giới tổ tiên. Lễ bỏ mả được coi như lần cuối cùng tiễn biệt người chết.

Văn hóa Trong kho tàng văn nghệ dân gian, còn phải kể đến các làn điệu dân ca, các điệu múa trong ngày hội và các lễ nghi tôn giáo. Nhạc cụ Ba Na đa dạng: những bộ cồng chiêng kết cấu khác nhau, những đàn T'rưng, brọ, klông pút, kơ ni, khinh khung, gôông, v.v... và những kèn tơ nốt, arơng, tơ-tiếp v.v... Nghệ thuật chạm khắc gỗ của người Ba Na độc đáo. Những hình thức trang trí sinh động trên nhà rông và đặc biệt những tượng ở nhà mồ v.v... vừa mộc mạc, vừa đơn sơ, vừa tinh tế và sinh động như cuộc sống của người Ba Na.

Nhà cửa Nhà người Ba Na thuộc loại hình nhà sàn. Cho đến nay, nhà của người Ba Na đã có rất nhiều thay đổi, hầu như không còn nhà sàn dài. Nhà sàn ngắn của các gia đình nhỏ là hiện tượng phổ biến. Mặc dù có nhiều thay đổi như vậy nhưng vẫn tìm được ở những địa phương khác nhau những ngôi nhà Ba Na có những đặc điểm như là những đặc trưng của nhà cổ truyền Ba Na, nhà nóc hình mai rùa hoặc chỉ còn là hai mái chính với hai mái phụ hình khum-dấu vết của nóc hình mai rùa. Chỏm đầu dốc có "sừng" trang trí (với các kiểu khác nhau tùy từng địa phương). Vác che nghiêng theo thế "thượng thách hạ thu". Có nhà, cột xung quanh nhà cũng chôn nghiêng như thế vách. Thang đặt vào một sàn lộ thiên trước mặt nhà. Trên sàn này người ta đặt cối giã gạo (cối chày tay). Ðiểm đáng chú ý là dưới đáy cối có một cái "ngõng", Khi giã gạo người ta cắm cái ngõng ấy vào một cái lỗ đục trên một thanh gỗ đặt trên sàn. Nhà tre vách nhưng có thêm lớp đố, ngoài được buộc rất cầu kỳ có giá trị như là một thứ trang trí Bộ khung nhà kết cấu đơn giản. Ðã là vì kèo nhưng vẫn trên cơ sở của vì cột. Tổ chức mặt bằng cũng đơn giản là 1 hiện tượng rất phổ biến hiện nay. Ngay như nhà của những người theo đạo Kitô cũng giữ lại kiểu bố trí trên mặt bằng như vậy. 

Ngôi nhà công cộng (nhà rông) cao lớn và đẹp đứng nổi bật giữa làng, đó là trụ sở của làng, nơi các bô lão tề tựu bàn việc công, nơi dân làng hội họp, nơi thanh niên chưa vợ và trai góa vợ ngủ đêm, nơi tiến hành các nghi lễ phong tục của cộng đồng, nơi tiếp khách lạ vào làng.

Trang phục Mang phong cách chung của khu vực nhưng có cá tính riêng đặc biệt là qua phong cách thẩm mỹ.

+ Trang phục nam Thường nhật, nam giới Ba Na mặc áo chui đầu, cổ xẻ. Ðây là loại áo cộc tay, thân áo có đường trang trí sọc đỏ chạy ngang, gấu áo màu trắng. Nam mang khổ kiểu chữ T theo lối quấn ngang dưới bụng, luồn qua háng rồi che một phần mông. Ngày lạnh rét, họ mang theo tấm choàng. Xưa nam giới búi tóc giữa đỉnh đầu hoặc để xõa. Nếu có mang khăn thì thường chít theo kiểu 'đầu rìu'. Trong dịp lễ bỏ mả, họ thường búi tóc sau gáy và cắm một lông chim công. Nam cũng thường mang vòng tay bằng đồng.

+ Trang phục nữ Phụ nữ Ba Na ưa để tóc ngang vai, khi thì búi và cài lược hoặc lông chim, hoặc trâm bằng đồng, thiếc. Có nhóm không chít khăn mà chỉ quấn bằng chiếc dây vài hay vòng cườm. Có nhóm như ở An Khê (Sông Bé), Mang Giang hoặc một số nơi khác chị em chít khăn trùm kín đầu, khăn chàm quấn gọn trên đầu. Xưa họ đội nón hình vuông hoặc tròn trên có xoa sáp ong để khỏi ngấm nước, đôi khi còn có áo tơi vừa mặc vừa che đầu. Họ thường đeo chuỗi hạt cườm ở cổ và vòng tay bằng đồng xoắn ốc dài từ cổ đến khủy tay (theo kiểu hình nón cụt). Nhẫn được dùng phổ biến và thường được đeo ở hai, ba ngón tay. Tục xả tai phổ biến vừa mang ý nghĩa trang sức vừa mang ý nghĩa tín ngưỡng của cộng đồng. Hoa tai có thể là kim loại, có thể là tre, gỗ. Tục cà răng mang theo quan niệm triết lý của cộng đồng hơn là trang sức. Phụ nữ Ba Na mang áo chủ yếu là loại chui đầu, ngắn thân và váy. Á

o có thể cộc tay hay dài tay. Váy là loại váy hở, thường ngắn hơn váy Ê Ðê, nay thì dài như nhau. Quanh bụng còn có đeo những vòng đồng và cài tẩu hút thọc vào đó. Về tạo hình áo váy, người Ba Na không có gì khác biệt mấy so với dân tộc Gia Rai hoặc Ê Ðê. Tuy nhiên nó được chọn ở phong cách mỹ thuật trang trí hoa văn, bố cục trên áo váy của người Ba Na. Cũng theo nguyên tắc của lối bố cục dải băng theo chiều ngang thân người, dân tộc Ba Na giành phần chính ở giữa thân áo và váy với diện tích hơn 1/2 áo, váy cũng như hai ống tay để trang trí hoa văn (chủ yếu là hoa văn hình học với các màu trắng đỏ), nền chàm còn lại của áo váy không đáng kể so với diện tích hoa văn. Thắt lưng váy cũng là loại được dệt thêu hoa văn và tua vải hai đầu và được thắt và buông thong dài hai đầu sang hai bên hông váy.

Lễ hội:

 Lễ hội đâm trâu ( X'trǎng): Đây là một trong những lễ hội quan trọng hàng đầu của người Ba Na Kon Tum, nhằm tế thần linh hoặc những người đã có công chủ trì thành lập buôn làng, ăn mừng chiến thắng, ăn mừng mùa màng bội thu.

 Để chuẩn bị cho lễ hội, dân làng chọn một con trâu mới lớn, khỏe mạnh, cho ăn uống đầy đủ rồi tắm rửa sạch sẽ. Thường trâu tế lễ là của làng, còn nếu trâu mua từ nơi khác thì phải mang về trước đó 10 ngày, cho ăn cỏ uống nước của làng. Vào ngày diễn ra Lễ hội, trâu được cột vào dây mây, một đầu nối với cây nêu (Người Ba Na gọi cây cột này là gưng sakapô). Người chủ trì Lễ (thường là già làng) sẽ đọc bài khấn, cảm ơn thần linh trong mùa vụ qua và mong thần linh phù hộ độ trì cho dân làng trong mùa sắp tới. Sau đó dân làng nhảy múa hò reo theo nhịp cồng chiêng rộn rã, xung quanh con trâu tế lễ. Nghi lễ đâm trâu là phần quan trọng bậc nhất của lễ hội: những thanh niên mạnh khỏe sẽ biểu diễn võ thuật, dương uy sức mạnh vòng tròn quanh con trâu trong tiếng cổ vũ của cả dân làng. Khi con trâu dã thấm mệt, họ lựa thời cơ, bất ngờ phóng lao dài giết trâu. Con trâu bị giết được đem xẻ thịt nhỏ chia cho các nhà trong buôn làng cùng liên hoan, xem như chia sẻ điều may mắn.

  Lễ bỏ mả: (Mơt bơxát hoặc Mơt brưh bơxát): Thông thường kéo dài khoảng 5 ngày. Theo quan quan niệm của người Ba Na, người chết tuy mất đi về thể xác, nhưng phần hồn vẫn tồn tại, ở trong nhà mồ, hồn sinh hoạt bình thường nh­ư người sống trên trần gian. Sau khoảng 3 năm, 7 năm hoặc lâu nhất là 10 năm thì bắt đầu làm Lễ bỏ mả, để hồn người chết bước hẳn qua thế giới mới.

 Để làm Lễ bỏ mả, gia đình sẽ chọn ngày cuốc dọn (anăr choh cham) nghi lễ cầu xin hồn ma người chết cho dựng nhà mồ mới, bắt tay vào dọn dẹp khu nhà mả cũ. Những ngày đầu, họ tập trung lại xây dựng nhà mả mới cho người chết, gia đình đem rượu, thịt tới khu nhà mả ăn uống, có để phần cho người đã chết và khóc lần cuối cùng vĩnh biệt người thân. Đến ngày thứ tư, khu việc xây dựng nhà mả mới đã xong, gia đình người chết dắt trâu ra nhà rông của làng để làm lễ tế thần linh. Sau khi xong nghi thức cúng tế bỏ mả, con trâu sẽ được phục vụ cho việc ăn uống, vui chơi của cả làng trong đêm đó.

 Lễ bỏ mả hoàn thành, mọi ràng buộc giữa người sống và người chết đã cắt đứt, người chết sẽ sang một thế giới khác. Hồn không còn quấy rầy những người còn sống ở trên trần gian nữa, người sống không phải kiêng kị gì nữa.

 Lễ cầu an (Át te rei ): thường được tổ chức vào cuối mùa Thu đến hết mùa Xuân (từ tháng 11 đến hết tháng 4 năm sau). Đây là lễ hội truyền thống của ngừời Ba Na vừa mang tính chất gia đình, dòng tộc và vừa có tính chất cộng đồng sâu sắc. Lễ cầu an được tổ chức khi gia đình gặp những chuyện không may: đau ốm, bệnh tật, mùa màng thất bát, bị tai họa gieo xuống,… Quy mô tổ chức Lễ cầu an rất đa dạng, có khi trong phạm vi gia đình, dòng tộc, có khi bao gồm tất cả dân làng. Hình thức tổ chức lễ hội tuỳ theo điều kiện kinh tế của gia đình, cộng đồng làng mà chuẩn bị con vật dâng cúng Yàng phù hợp. Những năm gần đây, lễ hội này vẫn được người Ba Na duy trì và tổ chức trang trọng, có sự đổi mới về cách thức tổ chức cho phù hợp với điều kiện, như lễ hội cầu an ở làng Kon Gộp, xã Đăk Pne, huyện Kon Rẫy, làng  Đăk Wơk, xã Hơ Moong, huyện Sa Thầy luôn có sự tham gia của đông đảo dân làng.

 Lễ mừng lúa mới: thường diễn ra trong khoảng thời gian từ tháng 11 dương lịch năm trước cho đến tháng 1 năm sau, đây là thời gian rảnh rỗi của con người sau khi đã thu hoạch xong vụ mùa thắng lợi và cũng là thời gian cho đất "nghỉ ngơi" theo tập quán. Lễ mừng lúa mới được tổ chức với mong ước cuộc sống ấm no cho cộng đồng ở các buôn làng có truyền thống sản xuất trên nương rẫy. Chọn một ngày đẹp trời sau vụ mùa, dân làng tụ tập ở Nhà rông, mỗi gia đình góp 1 con gà, 1 ghè rượu và 1 khay cốm, bày dọc theo 2 hàng của nhà rông. Chuẩn bị xong, mỗi nhà cử một đại diện ngồi vào mâm lễ của mình, đám trai làng đi chung quanh nổi cồng chiêng, già làng cầu mong cho sự bình yên, ấm no chung của cả làng, từng gia đình có điều ước riêng cho mình. Già làng và những người lớn tuổi được phép ăn và uống rượu trước tiên sau đó mới đến dân làng. Tiếng cười nói, đùa vui của người già, lũ trẻ hòa vào nhau, một không khí đầm ấm, nhộn nhịp. Cuộc vui thường kéo dài thâu đêm, đến khi con gà rừng gáy báo sáng vẫn còn nghe tiếng cồng chiêng.

 Ngoài ra, người Ba Na còn tổ chức Lễ cúng Nhà rông mới, Lễ hội cúng đất làng, Lễ hội con dúi,… Mỗi Lễ hội lại có những nét đặc trưng với hệ thống nghi lễ độc đáo gắn với từng thời kỳ và lí do cụ thể. Trong lễ hội, dân làng sống hết mình với những lời ca, điệu múa, nghe tiếng cồng chiêng rộn rã, thưởng thức những món ăn, tham gia những trò chơi lý thú. Lễ hội tạo cho mỗi người dân Ba Na Kon Tum sự phấn khởi tràn đầy, niềm tin vào cuộc sống yên bình, hạnh phúc.

                                                            TL (Sưu tầm)

Tin tức khác

Zalo phone Hotline